Thứ Năm, 21 tháng 6, 2007
Kỳ Bệnh
ÐỈNH ÐẦU SƯNG NHỌT NGŨ SẮC:
Ðỉnh đầu sinh nhọt ngũ sắc như trái anh đào. Khi nhọt vỡ loét, da lột dần tới chân. Người bị chứng này gọi là nhục nhân, đây là quái chứng. Uống nhiều sữa bò, nhọt sẽ tiêu.
LÔNG MÀY RẦN RẬT, MẮT KHÔNG NHÁY:
Lông mày chợt máy động, mắt trợn trừng, gọi không thưa nhưng vẫn ăn uống được như thường. Ðó là kỳ chứng. Giã 3 củ tỏi vắt lấy nước, hoà rượu uống là khỏi.
TRÒNG MẮT LÒI RA, CHẢY XUỐNG ÐAU NHỨC:
Tròng mắt tự nhiên lòi ra chảy xệ xuống đến mũi, đen xịt như sừng, đau nhức không thể chịu nổi hoặc đi cầu ra máu luôn. Ðó là can trướng, sắc Khương hoạt uống vài tách là khỏi.
THỊT TRONG MẮT LÒI RA NGOÀI:
Thịt trong mắt lòi ra sợi dài gần 3 phân, thô như nén nhang. Ðó là do hoả ở can đởm ngưng kết mà nên. Dùng Băng phiến (1 phân), Hoàng liên (1 phân), Bằng sa (nửa phân), Cam thảo (1 phân). Tán nhuyễn tất cả đến khi không còn nghe thấy tiếng rồi trộn 1 chút sữa người với thuốc, điểm vào sợi thịt ấy. Liền thấy hơi nóng trong mắt hừng hực phát ra, thịt rút vào là khỏi. Lại dùng Bạch thượt (5 đồng), Sài hồ (1 đồng), Chi tử (2 đồng - sao), Cam thảo (1 đồng), Bạch giới tử (3 đồng), Phục linh (3 đồng), Trần bì (1 đồng), Bạch truật (3 đồng), sắc với nước uống. Phương này hay ở chỗ làm thư khí ở can đởm lại thanh hoả, hoá đờm.
MŨI CHỢT THỤT VÀO:
Mũi chợt thụt vào, dùng Minh hùng hoàng, Châu sa (mỗi vị 3 đồng), sắc Thương truật hoà với 2 vị trên uống, đồng thời giã nát Thương truật đắp lên mũi, qua đêm là khỏi.
MŨI TO NHƯ NẮM TAY, ÐAU NHỨC MUỐN CHẾT:
Dùng Hoàng cầm, Sinh cam thảo, Mạch đông, Hoa phấn (mỗi vị 3 đồng), Cát cánh, Thiên đông (mỗi vị 5 đồng), Tử uyển (3 đồng), Bách bộ, Tử tô (mỗi vị 1 đồng), sắc với nước uống, hết 4 thang là xẹp.
MŨI THÒ RA SỢI ÐỎ, ÐAU NHỨC MUỐN CHẾT:
Mũi thò ra sợi đỏ dài cả 30 phân, đau nhức muốn chết. Ðó là do uống rượu quá nhiều, tích nhiệt mà nên. Dùng Bằng sa, Băng phiến thứ tốt (mỗi vị 1 phân), tán nhuyễn trộn với sữa người, nhè nhẹ điểm vào giữa sợi dây hồng, lập tức đau như trời giáng, nhưng tiêu ngay tức khắc.
LÔNG MŨI MỌC THÒ DÀI RA, THÔ NHỨC KHÔNG CHỊU NỔI:
Lông mũi thò ra trong 1 ngày đêm dài 3-6 phân dần dần to tròn thô nhức không thể tả, hễ nhổ lại mọc ra. Ðó là do ăn quá nhiều tiết heo, tiết dê. Dùng Nhũ hương (trộn sao với Ðăng thảo), Bằng sa (mỗi vị 1 lạng), tán nhỏ nhào cơm, trộn như hạt ngô đồng. Uống lúc bụng trống, khi đi ngủ, mỗi lần 10 viên, uống với nước nấu chín, tự nhiên lông sẽ rụng.
LỖ TAI NGỨA MUỐN LẤY DÙI ÐÂM NẠO NGOÁY:
Ðó là do thận hoả kết thành ráy sắt trong lỗ tai. Dùng Long cốt (1 đồng), Tạo giác thích (2 cái) đốt tồn tính, Băng phiến (3 phân), phân chuột đực - 1 hòn. Trước hết, tán các thuốc trên ra bột, rồi trộn đều với nước mật chuột. Sau hết, hòa sữa người trộn quánh như hồ. Nhét hết thuốc này vào lỗ tai tất ngứa không chịu nổi phải có người giữ chặt lấy hai tay. Hết ngứa là khỏi. Khỏi rồi, lại uống 3 lạng Lục vị hoàn thì sẽ không tái phát.
MIỆNG, MŨI CHẢY NHỚT NHỜN HÔI TANH
Miệng mũi chảy nước tanh hôi, lấy bát hứng đựng, màu như sắt, nhờn như nhớt cá tôm, vớt xúc lên thì lại hoá thành nước, gọi là nhục hoài. Cũng là quái chứng. Ăn nhiều thịt gà là khỏi.
NHỌT MỌC TRÊN MÔI, MỌC RĂNG LÒI RA:
Nhọt mọc trên môi, lâu ngày từ miệng nhọt mọc răng đâm xuyên qua môi. Ðó là do thất tình ưu uất, hoả động nên mới phát chứng lạ lùng như thế. Dùng Sài hồ (3 đồng), Bạch thược (3 đồng), Hoàng liên (1 đồng), Ðương quy (3 đồng), Xuyên khung (1 đồng), Sinh địa (3 đồng), Hoàng linh (1 đồng), Hoa phấn (3 đồng), Bạch quả (10 quả), sắc với nước uống. Ngoài dùng Băng phiến (1 phân), bột Cương tàm (1 đồng), Hoàng bá (3 đồng - sao tán) rắc lên. Răng sẽ tiêu mà vết nhọt khỏi.
LƯỠI LE RA KHÔNG RÚT VÀO ÐƯỢC:
Lưỡi le dài hơn 3 phân không rút vào được (lộng nhiệt) trên kết màng không bong, khó lòng ăn uống. Ðó là do dương hoả quá thịnh, lấy 1 chút Băng phiến điểm vào là lưỡi thụt vào ngay. Sau đó dùng Hoàng liên (3 đồng), Nhân sâm (3 đồng), Xương bồ, sài hồ (mỗi vị 1 đồng), Bạch thược (3 đồng). Sắc với nước uống 2 thang là khỏi.
Phương 2: Bỏ vào miệng con trai 1 phân Băng phiến, lập tức chảy tan ra nước. Lấy lông ngỗng chấm nước nầy phết lên lưỡi, lập tức lưỡi rụt vào, ăn uống lại như thường. Vì lại trai là vật rất ấm, giỏi trục âm tà, huống lại có thêm Băng phiến để tiêu độc ắt phải thành công.
BÀN TAY HIỆN HÌNH RẮN, NHỨC NHỐI:
Bàn tay hiện hình như con rắn, nhức nhối, lấy dao chích chảy máu đen như mực, rồi lấy bột Bạch chỉ rắc vào thì tạm đỡ, sáng hôm sau lại chích máu ra, lại rắc bột Bạch chỉ. Chỉ cần 2 lần là lặn hẳn. Lúc chích nên chích đầu trước đuôi sau, không được chích ngược.
KẼ NGÓN TAY XUẤT HUYẾT, RA TRÙNG BAY:
Kẽ ngón tay xuất huyết không ngừng, có trùng nhỏ như con phù du, một loáng là bay được. Ðó là chứng thấp nhiệt sinh trùng, thêm nhiễm phong tà. Dùng Phục linh (3 đồng), Hoàng kỳ (5 đồng), Ðương qui, Bạch thược, Sinh Cam thảo (mỗi vị 3 đồng), Nhân sâm, Sài hồ, Kinh giới (mỗi vị 1 đồng), Thục địa (5 đồng), Xuyên khung (1 đồng), Bạch truật (3 đồng), Ý dĩ (5 đồng) sắc với nước uống.
Phương này hay ở chỗ vừa sát trùng mà còn bổ khí, khử thấp, khử phong, làm khí huyết điều hoà trong người thì trùng không sinh ra được nữa. Bổ khí huyết khiến trùng không chỗ dung thân. Bởi vậy phương này bình ổn mà hay. Uống 4 tháng tất không chảy máu, không sinh trùng. Uống thêm 4 thang nữa ngón tay lành lặn như cũ.
BÀN TAY, BÀN CHÂN MỌC CỤC THỊT ÐAU NHÓI:
Ðâm vào đau nhói không thể chịu nổi, chỉ ăn nhiều rau mồng tơi là khỏi.
MÓNG TAY RỤNG KHÔNG ÐAU NGỨA:
Bị rụng hết móng tay, không đau, không ngứa là do thận kinh hư hoả và sau khi hành phòng rửa tay bằng nước lạnh nên bị bệnh nầy. Dùng Lục vị thang: Thục địa, Sơn thù du, Phục linh, Trạch tả, Sơn dược, Ðơn bì (mỗi vị 3 đồng), thêm Sài hồ (1 đồng), Bạch thược (3 đồng), Cốt toái bổ (3 đồng), uống vào là khỏi.
NGÓN TAY, NGÓN CHÂN RỤNG:
Người bị rụng hết ngón tay ngón chân mà không chết là do lúc bị thương hàn khát nước, uống quá nhiều nước mát nên bị kết. Hễ khỏi bệnh thương hàn, nếu thấy ngón tay ngón chân chảy nước thì phải mau phòng bị rụng. Mau dùng: Ý dĩ nhân (3 lạng), Phục linh (2 lạng), Nhục quế (1 đồng), Bạch truật (1 lạng), Xa tiền tử (1 đồng) sắc với nước uống liền 10 tháng sẽ đi tiêu, tiểu ra sạch mà ngón chân, ngón tay không chảy nước nữa. Nước ngừng chảy rồi thì không cần uống thêm thuốc nữa.
MƯỜI NGÓN TAY ÐỐT XƯƠNG GÃY RỜI:
Mười ngón tay đốt xương gãy rời, gân hư hỏng, trùng bò ra. Ðó là quái chứng, gọi là Huyết hư. Dùng Xích phục linh, Sài hồ, Hoàng liên sắc với nước uống.
BÀN CHÂN CHỢT MỌC THÊM NGÓN:
Chân chợt mọc thêm ngón, đau không thể tả. Ðó là do khí thấp nhiệt kết thành. Dùng Bằng sa (1 phân), Ngoã thông (1 lạng), Băng phiến (3 phân), Nhân sâm (1 đồng) tán nhỏ. Lấy dao khơi nhẹ cho chảy máu ngay nơi gốc ngón chân mới mọc, tức thì thấy chảy ra nước. Ðắp thuốc vào chỗ máu chảy. Hễ thấy chảy máu thì lại rắc thêm thuốc, đến khi nào hết chảy máu mới thôi. Trong 3 ngày, không chảy nước nữa cơn đau cũng dịu dần rồi hết. Lại dùng Nhân sâm (3 đồng), Bạch truật (5 đồng), Sinh cam thảo, Ngưu tất, Tỳ giải (mỗi thứ 3 đồng), Ý nhân (1 lạng), Bán hạ (1 đồng), Bạch giới tử (3 đồng) sắc với nước uống. Chỉ uống 4 thang là khỏi hẳn, ngón chân ấy cũng tiêu ra nước hết.
Ngoài dùng thuốc cao Sinh cơ tán dán thêm là khỏi.
MU BÀN CHÂN VỌT RA TIA MÁU:
Trên chân chợt có lỗ, máu vọt lên thành tia. Ðó là do tửu sắc tràn lan, dục vọng buông thả vô độ mà nên. Ðể chảy máu không ngừng ắt chết. Dùng: Mễ thố (Dấm - 3 thăng - nấu sôi) ngâm 2 bàn chân vào là ngừng chảy máu. Sau đó dùng Nhân sâm (1 lạng), Ðương quy (3 lạng) sao tán nhỏ rồi sắc nước, trộn với bột Xuyên sơn giáp mà uống sẽ không bị tái phát nữa.
MÌNH MẨY MỌC BỌC NƯỚC:
Khắp mình mọc bọc nước như quả lê, khi vỡ chảy nước, trong có 1 miếng đá như móng tay, bọc nước lại mọc nữa. Chứng này một khi rút hết da thịt thì không sống được. Dùng: Kinh tam lăng, Nga truật (mỗi vị 5 lạng) tán nhỏ, chia uống 3 lần, hoà với rượu uống đều đều là khỏi.
TỨ CHI GẦY GUỘC, KHÔ CỨNG, GÕ KÊU NHƯ CHUÔNG KHÁNH:
Ðó là quái chứng. Dùng: Thù du, Mộc hương (phân lượng bằng nhau) sắc thành thang uống sẽ khỏi.
MÌNH MẨY NGỨA ÐIÊN CUỒNG:
Mới đầu, mình mẩy phát ngứa ngáy, càng lúc càng ngứa như điên cuồng. Ðó là chứng huyết hư sinh phong. Dùng: Nhân sâm (1 lạng), Ðương quy (2 lạng), Kinh giới (3 đồng) sắc với nước uống, 3 tể là hết ngứa ngáy, đau nhức. Nghèo không mua được sâm thì có thể thay bằng 2 đồng cân Hoàng kỳ.
MÌNH MỌC NHỌT MẶT NGƯỜI:
Trên mình chợt mọc nhọt lở tựa mặt người, có đủ mặt mũi miệng. Tán nhuyễn Tượng bối mẫu (5 đồng), Lôi hoàn (3 đồng), thêm 1 đồng Khinh phấn, 1 đồng bột Bạch phục linh. Hoà đều với nước mà bôi sẽ tiêu, hoặc chỉ rắc bột Bối mẫu hay hoà bột nầy với nước bôi, da sẽ dần se mặt, vết thương sẽ liền miệng mà khỏi.
CHỨNG SẮT LỰU (Nhọt rận):
Bị chứng này mình mẩy ngứa thấu xương tủy, cục nhọt vỡ ra, máu thịt đều hỏng, đau ngứa không chịu nổi, suốt ngày gào khóc, đầu lưỡi xuất huyết, mình mẩy và răng bầm đen lại, môi giật, mũi phồng. Chứng nầy là máu rữa (hủ) phong động. Phải nấu dấm với muối, uống liền liền thì khỏi.
DA THỊT PHÁT RA TIẾNG, NGỨA GHÊ GỚM:
Trong da thịt phát ra tiếng như sóng vỗ, ngứa ghê gớm, gãi đến tươm máu. Chứng này gọi là khí bôn. Dùng Khổ đê, Nhân sâm, Thanh diêm (mỗi vị 2 đồng), Tế tân (7 phân) sắc với nước, uống từ từ, uống hêt' là khỏi.
DƯỚI DA NỔI HÌNH CON CUA DI ÐỘNG, PHÁT RA TIẾNG:
Ðó là bệnh trùng lao do gân thịt hoá ra. Dùng Lôi hoàn, Hùng hoàng (mỗi vị 1 lạng) tán nhỏ, rắc lên thịt heo, nướng chín mà ăn.
TRONG BỤNG SINH RẮN:
Ðó là do khí độc hoá ra. Hoặc bị cảm nhiễm hơi sơn lam thuỷ thấp, hoặc cảm tà khí tứ thời, hoặc nhiễm hơi xác chết, hơi bệnh mà thành. Người bệnh thân hình gây nhom như que củi, da như mọc vẩy, trong bụng động nổi cuộn lên, đó là xà độc vậy. Dùng Hùng hoàng (1 lạng), Bạch chỉ (5 đồng), Sinh cam thảo (2 lạng). Tán nhuyễn các vị trên, vào ngày Ðoan ngọ (mồng 5 tháng 5) viên thành hoàn trộn với cám, cỡ hạt ngô đồng, uống trước bữa ăn. Dùng thuốc xong tất đau bụng, nên gắng chịu, chớ uống nước, uống nước sẽ không công hiệu.
BỤNG CỨNG, RỐN CHẢY NƯỚC, HOÁ THÀNH TRÙNG:
Bụng cứng như đá như thép, rốn chảy nước liền hoá thành trùng, bò quanh khắp mình, ngứa không thể chịu nổi. Sắc Thương truật (bao nhiêu cũng được) thật đặc lấy nước ấy mà tắm. Lại lấy bột Thương truật trộn với 1 chút Xạ hương mà uống.
RỐN CHỢT LỒI RA DÀI NHƯ ÐUÔI RẮN:
Rốn chợt lòi ra như đuôi rắn, không đau, không ngứa. Ấy là do mạch Nhâm mạch Ðới có đàm khí ủng trệ mà ra. Dùng Bằng sa (1 phân), Bạch chỉ (1 đồng), Hùng hoàng (1 đồng), Băng phiến (1 phân), Xạ hương (1 phân), Nhị trà (2 đồng). Mỗi thứ tán nhỏ, chích chảy máu đuôi rốn, tất nhiên đau ngất muốn chết, mau điểm thuốc vào thì lập tức chảy ra nước đen. Lại mau dùng Bạch chỉ (3 đồng) sắc nóng lên uống là khỏi.
GIUN LÃI TỪ RUỘT BÒ RA LIÊN TỤC:
Giun lãi từ hậu môn chui ra không ngừng, hết rồi lại sinh, đi lại, đứng, ngồi đều không được. Ðó là chứng đại trường thấp nhiệt. Dùng: Thiên danh tinh (5 đồng) tán nhỏ, hoà nước uống sẽ khỏi.
CHỨNG ÐẠI TIỂU TIỆN NGHỊCH ÐƯỜNG:
Người đi cầu, phân ra theo đường tiểu. Ði tiểu, nước tiểu ra lối hậu môn. Ðó là chứng thử nhiệt mùa hè. Dùng Ngũ linh tán mà trị. Phương khác: Xa tiền tử (3 lạng) sắc nước lấy 3 bát uống liền 1 hơi là khỏi.
ÐI TIỂU RA ÐÁ NGŨ SẮC (Ðái ra sỏi sạn):
Trước khi đi tiểu nhức buốt vô cùng, tiểu xong cảm thấy khoan khoái. Ðó là chứng Thạch lâm (đái ra sỏi sạn). Dùng Thục điạ (3 lạng), Phục linh, Dĩ nhân, Xa tiền tử (mỗi thứ 5 lạng), Sơn thù du (3 lạng), Thanh diêm (1 lạng), Cốt toái bổ (2 lạng), Trạch tả (3 lạng), Mạch đông (5 lạng), Hoàng thực (8 lạng), Nhục quế (3 đồng), tán nhỏ mỗi vị, hoà mật thành hoàn. Sớm tối uống vơí nước nấu chín, mỗi thứ 1 lạng. Trong vòng 10 ngày tất sẽ không bị khổ vì nạn đái ra sỏi sạn nữa. Chứng ngày rất khổ, muốn đái không được, mà không đái không xong, đường tiểu đau buốt như dao cắt, dùng hết sức bình sinh chỉ đái ra được 1 cục, tiếng kêu vang ròn, rơi vào nước không tan. Ðó là do hoả ở bàng quang uất kết mà nên. Phương này hay ở chỗ không chỉ trị bệnh mà còn bổ chỗ bất túc của Thận thủy. Thủy đủa thì hoả tự tiêu, hoả tiêu thì nước đục tự tan. Nếu chỉ trị bàng quang thì khí không tan, nước làm sao mà tự hoá được.
HAI BÓNG CÙNG NẰM, NGỒI:
Người bệnh cảm thấy lúc nào bên mình cũng có cái bóng, nằm cùng nằm, ngồi cùng ngồi. Ðó là Ly hồn bệnh. Dùng Thần sa, Nhân sâm, Phục linh (mỗi vị phân lượng bằng nhau) sắc đặc uống hằng ngày. Nếu bệnh thật thì sẽ thấy khí sảng khoái, nếu giả thì bóng sẽ tự biến mất.
PHỤ NỮ VÚ RÚT VÀO NGỰC:
Ðó là chứng thậm nguy, cũng hết như đàn ông dương vật thụt vào trong vậy. Phải mau hai tay nắm chặt hai vú kéo lại. Bắt con gà trống khoảng 10 lạng để nguyên lông, mổ bỏ lòng ruột, xát 1 đồng Xạ hương vào bụng gà rồi úp lên rốn.
PHỤ NỮ CÓ KINH NGUYỆT, DỮ DỘI NHƯ THÚ DỮ:
Phụ nữ có kinh nguyệt, dữ dội như thú dữ, luôn muốn đả thương người khác. Trước hết lấy bông gòn nhét kín âm hộ. Xong, tán 1 lạng Một dược cho uống với nước chín là khỏi.
TRỊ CỔ TRƯỚNG:
Bị thuỷ cổ trướng (bụng phù nước to như cái trống). Muốn rút nước mà không phải mổ hoặc không muốn dùng kim chích rút nước thì dùng cách sau: Chân Khinh phấn (2 lạng), Ba đậu sương (4 lạng), Sinh lưu hoàng (1 đồng) (thêm chút Xạ hương thì càng hay), cùng tán nhỏ nhào thành bánh. Trước hết, lấy 1 miếng bông đặt trên rốn rồi ấp bánh thuốc lên trên, ngoài lấy vải buộc một thời gian khoảng người đi bộ 5-6 dặm thì đi cầu chảy ra nước vàng, đi cầu chừng 2-5 lần thì cởi bỏ thuốc cho ăn cháo ấm để bồi bổ. Bị lâu thì cách ngày 1 lần. Một bánh thuốc như thế có thể trị được hai ba chục người. Khi khỏi bệnh, kỵ uống nước lạnh.
Cách khác: Bị thủy thủng, thủng độc, phù trướng, dùng thuốc mà chưa thấy tiêu thì lấy bột Cam toại thoa lên bụng, thoa dầy quanh rốn, rồi sắc Cam thảo với nước cho uống thì chỗ thủng sẽ từ từ xẹp.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét